Nguyên nhân và triệu chứng bệnh gan nhiễm mỡ

Gan nhiễm mỡ được định nghĩa như là một sự tích luỹ của chất béo trong gan vượt quá 5% trọng lượng của gan hoặc quan sát dưới kính hiển vi thấy nhiều hơn 5% số tế bào gan chứa các hạt mỡ.

Gan nhiễm mỡ được phát hiện trong khoảng một phần ba các trường hợp khám nghiệm tử thi của những người khỏe mạnh tử vong do tai nạn . Trong hầu hết các trường hợp, chất béo ứ đọng chủ yếu là triglycerides, nhưng trong một vài trường hợp thì phospholipids chiếm đa số. Gan bình thường chứa khoảng 5 g lipid cho mỗi 100 g trọng lượng của gan, trong đó khoảng 14% là triglyceride, 64% là phospholipids, 8% cholesterol, và 14% là các acid béo tự do . Trong gan nhiễm mỡ, lượng chất béo chiếm có thể chiếm đến 50% trọng lượng của gan, trong đó hơn một nửa là các triglyceride. Gan nhiễm mỡ có thể là một kết quả của rất nhiều bệnh, bao gồm nghiện rượu, các bệnh về chuyển hóa, các rối loạn về dinh dưỡng, và của việc sử dụng thuốc. Sự tích luỹ chất béo sự phân bố trong các tiểu thuỳ gan, sự phân bố này phụ thuộcvào nguyên nhân và sự kéo dài của tình trạng gan nhiễm mỡ. Chất béo ứ đọng trong tế bào gan có thể ở dạng macrovesicular (những hạt mỡ lớn đẩy lệch nhân) hoặc microvesicular (rất nhiều hạt mỡ nhỏ nằm xung quanh nhân tế bào) tuỳ thuộc vào diễn tiến của bệnh.

gannhiemmo Nguyên nhân và triệu chứng bệnh gan nhiễm mỡ

Phân loại gan nhiễm mỡ:

  • Trên siêu âm chia gan nhiễm mỡ làm 3 độ:

– Độ 1: gia tăng nhẹ độ hồi âm lan tỏa của nhu mô, mức độ hút âm chưa đáng kể, vẫn còn xác định được cơ hoành và đường bờ các tĩnh mạch trong gan.

– Độ 2: gia tăng độ hồi âm lan tỏa của nhu mô, khả năng xác định được cơ hoành và đường bờ các tĩnh mạch trong gan bị giảm nhiều.

– Độ 3: gia tăng rõ rệt độ hồi âm lan tỏa của nhu mô, mức độ hút âm tăng mạnh đến mức khó xác định được cơ hoành và đường bờ các tĩnh mạch trong gan.

  • Theo sinh thiết tế bào gan:

– Loại nhe (hàm lượng mỡ chiếm 5-10% trọng lượng gan)

– Loại vừa (hàm lượng mỡ chiếm 10-25% trọng lượng gan)

– Loại nặng (hàm lượng mỡ trên 30% trọng lượng gan)

Dịch tễ học gan nhiễm mỡ:

Là bệnh phổ biến của cuộc sống hiện đại ngày nay, tỷ lệ bệnh nhân gan nhiễm mỡ ngày càng gia tăng ở các nước phát triển cũng như đang phát triển trong đó có Việt Nam. Theo các nghiên cứu về dịch tễ học, cho thấy:

– Tỷ lệ GNM ở nam cao hơn ở nữ.

– Tỷ lệ GNM trong dân số tại các nước là 10- 24% và tỷ lệ này gia tăng đến 57,5- 74% ở những người béo phì.

–  Sự liên quan giữa béo phì với GNM biến thiên từ 30- 100%, tiểu đường typ II là 10- 75%, tăng lipid máu là 20- 92%.

–  Như vậy nguy cơ mắc GNM tăng gấp 4,6 lần ở những người béo phì. Dạng béo bụng dường như là một nguy cơ mắc bệnh GNM, ngay cả khi bệnh nhân có chỉ số khối cơ thể (BMI) bình thường.

– Sự hiện diện của tiểu đường typ II làm gia tăng nguy cơ và độ nặng của bệnh GNM. Và sự kết hợp tiểu đường và béo phì là một yếu tố nguy cơ cộng lực. Trong số các bệnh nhân béo phì nặng có tiểu đường, 100% được tìm thấy mắc GNM nhẹ.

– Trong một nghiên cứu, khoảng ½ số bệnh nhân tăng lipid máu phát hiện có GNM. Tăng Triglycerides máu có nguy cơ mắc bệnh GNM hơn là tăng Cholesterol máu.

TRIỆU CHỨNG BỆNH GAN NHIỄM MỠ:

1. Triệu chứng lâm sàng

Những người bị gan nhiễm mỡ đa phần đều không có triệu chứng bởi vì tình trạng lắng đọng mỡ tại gan xảy ra từ từ nên các biểu hiện của nó đều khó cảm thấy. Chỉ khi đi siêu âm, xét nghiệm máu hoặc chụp cắt lớp mới phát hiện được.

Tuy nhiên GNM có thể chỉ biểu hiện với triệu chứng mệt mỏi, đau tức hoặc nặng vùng gan, khi GNM nặng có thể sẽ có triệu chứng: đau bụng, vàng da, buồn nôn và nôn, gan to nhẹ. Ở những bệnh nhân gan nhiễm mỡ do những nguyên nhân khác nhau thì cũng có kèm theo những triệu chứng toàn thân và những dấu hiệu đặc trưng của những nguyên nhân đó.

2. Cận lâm sàng

Những bất thường về kết quả xét nghiệm của tình trạng gan nhiễm mỡ thường rất ít. Trong các trường hợp chỉ số enzym huyết thanh tăng thì chỉ số aspartate aminotransferase (AST) huyết thanh tăng cao rõ rệt so với chỉ số alanine aminotransferase (ALT), thường thì ALT ở mức bình thường. Dấu hiệu ứ mật với chỉ số alkaline phosphatase tăng cao rõ rệt có thể xuất hiện khi kèm theo đau vùng thượng vị phải, sốt, bạch cầu tăng và nó có thể gây nhầm lẫn với tắc ống mật ngoài gan. Chỉ số g -glutamyl transpeptidase cũng tăng nhưng không có giá trị để đánh giá mức độ tổn thương tế bào gan bởi vì nó thường tăng cao ở những bệnh nhân nghiện rượu không có tổn thương gan rõ rệt do sản sinh microsomal bởi rượu.

Các bất thường khác ít gặp hơn là tăng bilirubin huyết thanh trực tiếp và giảm albumin huyết thanh.

NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH GAN NHIỄM MỠ:

Mãn tính:

  • Nghiện rượu
  • Bệnh béo phì (viêm gan nhiễm mỡ)
  • Bệnh tiểu đường
  • Tăng lipid máu
  • Phẩu thuật nối hồi-hổng tràng
  • Thiếu hụt dinh dưỡng protein-năng lượng
  • Nuôi ăn qua đường tĩnh mạch
  • Những rối loạn di truyền về oxi hóa acid béo ở ty lạp thể
  • Các bệnh gan khác(viêm gan C mãn tính, bệnh Wilson )
  • Bệnh hệ thống (viêm ruột, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải-AIDS)

Cấp tính

  • Gan nhiễm mỡ trong thai kỳ
  • Hội chứng Reye
  • Bệnh ói mửa Jamaican
  • Các chất độc dạng hợp chất (carbon tetrachloride, trichloroethylene, phosphorus, fialuridine)
  • Thuốc (tetracycline, valproic acid, amiodarone, glucocorticoids và tamoxifen)

Theo Camnangbenh

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *